Nghiên cứu lâm sàng HIV/ AIDS.
Kết quả điều trị khử electron đối với HIV / AIDS
Noboru Horiguchi * 1), Daiqiang Shi **, Hiroshi Horiguchi * 2)
Tóm lược
Nghiên cứu này được tiến hành để kiểm tra hiệu quả của việc trị liệu khử electron đối với HIV / AIDS. Nghiên cứu được thực hiện trên tổng số 60 đối tượng, 40 người đang được điều trị HAART và được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm mỗi nhóm gồm 20 bệnh nhân; một nhóm bệnh nhân được điều trị khử electron và một nhóm không được điều trị. Tương tự, 20 bệnh nhân không được điều trị được đặt dưới sự quan sát được phân thành hai nhóm 10 bệnh nhân; một nhóm chỉ được điều trị khử electron và một nhóm không được điều trị. Hiệu quả điều trị được so sánh giữa bốn nhóm. Sau khi chấm dứt nghiên cứu 12 tuần, nhóm nhận điều trị kết hợp giữa khử electron và HAART cho thấy sự giảm rõ rệt số lượng HIV-RNA, và cải thiện số lượng tế bào lympho T CD4 dương tính, tỷ lệ CD4 / CD8 và trọng lượng cơ thể. Ngoài ra, nhóm chỉ được điều trị khử electron đã giảm đáng kể số lượng HIV-RNA và cải thiện trọng lượng cơ thể, tương tự như nhóm điều trị kết hợp HAART và khử electron.
Từ khóa: HIV/ AIDS/ Trị liệu khử electron.
Kết hợp điều trị giữa HAART và trị liệu khử electron.
I. Giới thiệu
HIV / AIDS là một trong những bệnh truyền nhiễm khó điều trị nhất.
Theo một báo cáo nghiên cứu được xuất bản bởi Janet D Siliciano và cộng sự, chỉ ra rằng ngay cả khi HAART vẫn tồn đọng trong cơ thể bệnh nhân HIV / AIDS, thì các tế bào bị nhiễm bệnh mới sẽ vẫn còn tồn tại trong cơ thể của bệnh nhân trong một thời gian dài, và cần đến khoảng 73 năm mới có thể loại bỏ hoàn toàn HIV khỏi cơ thể 1). Do đó, có thể nói rằng việc điều trị triệt để cho bệnh nhân nhiễm HIV bằng HAART hầu như là không thể. Hơn nữa, việc sử dụng thuốc trong thời gian dài đã làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe của quốc gia, và mang lại một số tác dụng phụ của thuốc chống virus 2) cũng như gây ra sự phát triển của vi-rút kháng thuốc 3) từ đó gây khó khăn cho việc tiếp tục điều trị. Vì vậy, việc sử dụng thuốc kháng HIV có tác dụng rất hạn chế, và việc phát triển các liệu pháp mới để điều trị bệnh hiện nay là một vấn đề cấp thiết. Vì lý do này, chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu lâm sàng ở bệnh nhân HIV / AIDS sử dụng MIE-01, một thiết bị trị liệu khử electron mà chúng tôi nghiên cứu và phát triển độc lập để thay thế cho các thuốc kháng HIV.
II. Đối tượng và phương pháp
Nghiên cứu (nghiên cứu lâm sàng) được tiến hành phù hợp với Tuyên bố Helsinki.
1. Thử nghiệm lâm sàng
Thử nghiệm lâm sàng đã được thực hiện tại Khoa truyền nhiễm tại Bệnh viện Nhân dân số 6 Hàng Châu, Trung Quốc, từ tháng 12 năm 2006 đến tháng 11 năm 2007.
Thời gian thử nghiệm lâm sàng của mỗi đối tượng là 12 tuần sau khi sàng lọc.
2. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 60 bệnh nhân, 40 bệnh nhân được điều trị bằng HAART theo lộ trình, và 20 bệnh nhân không được điều trị và được theo dõi; tất cả đều là bệnh nhân ngoại trú của Khoa truyền nhiễm tại Bệnh viện Nhân dân số 6 Hàng Châu, Trung Quốc. Những bệnh nhân không được điều trị và được theo dõi cần phải có số lượng tế bào lympho T dương tính CD4 trên 200 tế bào / mL dựa trên hướng dẫn điều trị HIV / AIDS ở Trung Quốc. Có 38 nam và 22 nữ, tuổi từ 20 đến 58, với độ tuổi trung bình là 37,7 năm.
3. Tiêu chí lựa chọn (sàng lọc)
Tiêu chí lựa chọn là nam hoặc nữ từ 20 đến 60 tuổi và được chẩn đoán nhiễm AIDS hoặc HIV với kháng thể kháng HIV-1 dương tính với ELISA và Western blotting trong vòng một tháng trước khi bắt đầu nghiên cứu hoặc tại thời điểm sàng lọc. Tuy nhiên, bệnh nhân bị sốt nghiêm trọng, phụ nữ mang thai và những người đang sử dụng thiết bị điện tử y tế cấy ghép / đeo được hoặc thiết bị y tế nhân tạo kim loại sẽ bị loại trừ. Bệnh nhân đáp ứng các tiêu chuẩn sàng lọc đã ký mẫu chấp thuận cho nghiên cứu lâm sàng, và quyết định tham gia của họ đã được xác nhận.
4. Thiết bị trị liệu khử electron
Sử dụng thiết bị cải tiến (thiết bị xử lý giảm điện tử: MIE-01) dựa trên Mi Energy® được sản xuất bởi Công ty TNHH Thiết bị Y tế Serumi. Mi Energy® là một thiết bị điều trị được bảo hiểm y tế chi trả (Mã phê duyệt thiết bị y tế: 1500BZZ00602000), đã được Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi phê duyệt và chỉ định điều trị cho chứng cứng vai, đau đầu, mất ngủ và táo bón mãn tính.
Trong thiết bị xử lý khử electron MIE-01, dòng điện yếu xảy ra do chuyển các electron được chuyển vào cơ thể người. Các dòng điện được tạo ra được đưa trở lại thông qua một AMP (Bộ khuếch đại) và được điều khiển để liên tục nằm trong phạm vi dòng điện trị liệu giữa -1,5 μ A và -4,5 μ A của CPU (Bộ xử lý trung tâm). Điều này có thể giảm thiểu ảnh hưởng từ môi trường như nhiệt độ hoặc độ ẩm môi trường không khí, và nhiệt độ cơ thể. Cấu trúc bên trong của thiết bị được hiển thị trong Hình 1.
5. Phương pháp thử
(1) Thành phần của nhóm đối tượng
Trong số 60 đối tượng đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn, 40 bệnh nhân được điều trị HAART và dự kiến bắt đầu điều trị như vậy được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm gồm 20 bệnh nhân: một nhóm điều trị khử electron và nhóm còn lại thì không. Tương tự như vậy, 20 bệnh nhân không được điều trị HAART được đặt dưới sự giám sát được phân loại thành hai nhóm 10 bệnh nhân mỗi nhóm: một nhóm để điều trị trử electron và một nhóm khác không được điều trị. Bốn nhóm sau đó được so sánh.
(2) Thuốc trị liệu
Đối với HAART, ba trong số năm loại thuốc EFV / efavirenz, AZT / zidovudine (hoặc azidothymidine), 3TC / lamivudine, d4T / sanilvudine và NVP / nevirapine đã được chọn và sử dụng.
(3) Thiết bị khử electron: Điều trị bằng MIE-01
Theo các bước tiến hành trong hình 2, điều trị đã được thực hiện với tần suất 7 ngày/ tuần trong vòng 12 tuần. Thời gian điều trị mỗi lần là 20 phút, thực hiện 5 lần mỗi ngày, mỗi lần cách nhau tối thiểu 60 phút.
(4) Lịch trình nghiên cứu và các mục thử nghiệm
Các xét nghiệm được tiến hành trước khi bắt đầu điều trị với thiết bị, 4, 8 và 12 tuần sau đó, tiến hành đo số lượng HIV-RNA, số lượng tế bào lympho T CD4 dương tính, tỷ lệ CD4 / CD8 và trọng lượng cơ thể.
III. Các kết quả
1.Thay đổi số lượng HIV - RNA
Thay đổi số lượng HIV – RNA trong mỗi nhóm đối tượng điều trị thể hiện tại hình 3.
(1) Nhóm điều trị khử electron kết hợp và HAART
Trong nhóm người được điều trị khử electron kết hợp HAART, lượng HIV-RNA ở cuối tuần thứ 12 của nghiên cứu (với số lượng trước nghiên cứu) giảm ở 17 trên 20 bệnh nhân, không thay đổi ở 2 bệnh nhân và tăng lên ở 1 bệnh nhân (P = 0.00018). Giá trị trung bình của HIV-RNA ban đầu trước khi nghiên cứu là 3,48 ± 0,985 và khi kết thúc nghiên cứu là 2,32 ± 0,826. Lượng thay đổi trung bình của HIV-RNA là giảm 1,16 log10.
(2) Nhóm chỉ điều trị bằng HAART
Trong nhóm bệnh nhân chỉ dùng HAART, số lượng HIV-RNA vào cuối tuần thứ 12 của nghiên cứu đã giảm ở 6 trong 20 bệnh nhân, không thay đổi ở 2 bệnh nhân và tăng lên ở 12 bệnh nhân (P = 0.243). Số lượng trung bình của HIV-RNA trước khi nghiên cứu là 2,78 ± 0,725, và khi kết thúc kiểm tra là 2,94 ± 0,818.
(3) Nhóm điều trị khử electron
Ở những bệnh nhân chỉ được điều trị bằng phương pháp khử electron, lượng HIV-RNA vào cuối tuần thứ 12 của nghiên cứu giảm xuống 9 trong số 10 đối tượng và tăng lên ở 1 đối tượng (P = 0,0010). Giá trị trung bình của HIV-RNA trước khi nghiên cứu là 3,19 ± 0,573, và khi kết thúc nghiên cứu là 2,19 ± 0,642. Số lượng trung bình của sự thay đổi là giảm 1,0 log10.
(4) Nhóm không được điều trị
Trong nhóm không điều trị, lượng HIV-RNA ở cuối tuần thứ 12 của nghiên cứu đã giảm ở 5 trong số 10 bệnh nhân, không thay đổi ở 1, và đã tăng lên 4 (P = 0,775). Giá trị trung bình của HIV-RNA trước khi nghiên cứu là 2,96 ± 1,019, và khi kết thúc nghiên cứu là 3,01 ± 1,034.
2. Số lượng tế bào lympho T CD4 dương tính
Những thay đổi về số lượng tế bào lympho T CD4 dương tính (tế bào / μ L) cho mỗi nhóm được thể hiện trong Hình 4.
(1) Nhóm điều trị khử electron kết hợp và HAART
Số lượng tế bào lympho T CD4 dương tính ở cuối tuần thứ 12 của nghiên cứu đã tăng lên ở 18 trong số 20 bệnh nhân, và giảm xuống ở 2 bệnh nhân (P = 0,0004). Giá trị trung bình của tế bào lympho T CD4 dương tính trước khi nghiên cứu là 241,7 ± 182,51, và khi kết thúc nghiên cứu là 393,4 ± 229,77. Lượng thay đổi trung bình là tăng 151,7 tế bào / μ L.
(2) Nhóm chỉ điều trị bằng HAART
Số lượng tế bào lympho T CD4 dương tính ở cuối tuần thứ 12 của nghiên cứu đã tăng lên ở 13 trong số 20 bệnh nhân, và giảm xuống ở 7 bệnh nhân (P = 0,473). Giá trị trung bình của tế bào lympho T CD4 dương tính trước nghiên cứu là 339,9 ± 239,15, và khi kết thúc nghiên cứu là 316,8 ± 149,05.
(3) Nhóm chỉ điều trị khử electron
Số lượng tế bào lympho T CD4 dương tính ở cuối tuần thứ 12 của nghiên cứu tăng lên 6 trong số 10 bệnh nhân, và giảm xuống ở 4 bệnh nhân (P = 0,099). Giá trị trung bình của tế bào lympho T CD4 dương tính trước khi nghiên cứu là 365,4 ± 102,98, và khi kết thúc nghiên cứu là 463,4 ± 241,16. Số lượng thay đổi trung bình là tăng 98 tế bào / μ L.
(4) Nhóm không được điều trị
Số lượng tế bào lympho T CD4 dương tính khi kết thúc 12 tuần của nghiên cứu đã tăng lên ở 4 trong số 10 bệnh nhân, không thay đổi ở 1 bệnh nhân, và giảm xuống ở 5 bệnh nhân (P = 0,523). Giá trị trung bình của tế bào lympho T CD4 dương tính trước nghiên cứu là 368,4 ± 233,92, và ở cuối nghiên cứu là 326,0 ± 112,55.
3. Tỷ lệ CD4 / CD8
Những thay đổi trong tỷ lệ CD4 / CD8 cho mỗi nhóm đối tượng được thể hiện trong Hình 5.
Tỷ lệ CD4 / CD8 trước và vào cuối nghiên cứu sau 12 tuần đã tăng lên 18 trong 20 bệnh nhân được điều trị khử electron kết hợp với HAART, và ở 6 trong 10 bệnh nhân chỉ được điều trị khử electron.
(1) Nhóm điều trị khử electron kết hợp HAART
Tỷ lệ CD4 / CD8 vào cuối nghiên cứu 12 tuần đã tăng từ lúc ban đầu lên 18 trong số 20 bệnh nhân, và giảm xuống ở 2 bệnh nhân (P = 0,00155). Tỷ lệ CD4 / CD8 trung bình trước khi nghiên cứu là 0,274 ± 0,267 và khi kết thúc nghiên cứu là 0,396 ± 0,2747.
(2) Nhóm chỉ điều trị bằng HAART
Tỷ lệ CD4 / CD8 vào cuối tuần thứ 12 của nghiên cứu đã tăng lên ở 9 trong số 20 bệnh nhân, và giảm xuống ở 11 bệnh nhân (P = 0,710). Tỷ lệ CD4 / CD8 trung bình trước khi nghiên cứu là 0.350 ± 0.261, và khi kết thúc nghiên cứu là 0.341 ± 0.242.
(3) Nhóm điều trị khử electron
Tỷ lệ CD4 / CD8 khi kết thúc 12 tuần nghiên cứu tăng lên 6 trong số 10 bệnh nhân và giảm xuống ở 4 bệnh nhân (P = 0,153). Tỷ lệ CD4 / CD8 trung bình trước khi nghiên cứu là là 0,397 ± 0,138, và ở cuối nghiên cứu là 0,467 ± 0,208.
(4) Nhóm không được điều trị
Tỷ lệ CD4 / CD8 khi kết thúc 12 tuần nghiên cứu tăng ở 3 trên 10 bệnh nhân và giảm xuống ở 7 bệnh nhân (P = 0,166). Tỷ lệ CD4 / CD8 trung bình trước khi nghiên cứu là 0,341 ± 0,167 và cuối nghiên cứu là 0,266 ± 0,121.
4. Trọng lượng cơ thể
(1) Nhóm điều trị khử electron kết hợp HAART
Trọng lượng cơ thể vào cuối nghiên cứu 12 tuần tăng từ đường cơ sở ở 17 trên 20, không thay đổi trong 2, và đã giảm xuống 1 (P <0,0001). Giá trị trọng lượng trung bình trước khi nghiên cứu là 52,8 ± 7,17 và cuối nghiên cứu là 60,0 ± 8,35. Lượng thay đổi trung bình là tăng 7,2 kg.
(2) Nhóm chỉ điều trị bằng HAART
Trọng lượng cơ thể khi hoàn thành 12 tuần nghiên cứu tăng lên 9 trong số 20 bệnh nhân, không thay đổi ở 1 bệnh nhân và giảm ở 10 bệnh nhân (P = 0,605). Trọng lượng trung bình trước khi nghiên cứu là 60,0 ± 7,68, và vào cuối nghiên cứu là 59,5 ± 7,81.
(3) Nhóm điều trị khử electron
Trọng lượng cơ thể khi kết thúc 12 tuần nghiên cứu tăng ở tất cả 10 bệnh nhân (P <0,0001). Giá trị trọng lượng trung bình trước khi nghiên cứu là 52,3 ± 9,25 và cuối nghiên cứu là 58,9 ± 10,2. Trung bình tăng 6,6 kg.
(4) Nhóm không được điều trị
Trọng lượng cơ thể khi kết thúc 12 tuần nghiên cứu tăng ở 7 trên 10 bệnh nhân và giảm xuống 3 (P = 0,165). Giá trị trọng lượng trung bình trước khi nghiên cứu là 57,4 ± 9.44, và khi kết thúc nghiên cứu là 58.5 ± 10.2.
6. Các phản ứng phụ và phản ứng bất lợi
Trong thời gian nghiên cứu lâm sàng, không có phản ứng phụ hoặc phản ứng bất lợi nào được coi là liên quan đến thiết bị điều trị giảm điện tử, MIE-01.
IV. Thảo luận
Các kết quả trên cho thấy điều trị bằng HAART và điều trị khử electron có hiệu quả trong việc ức chế số lượng virus và cải thiện khả năng miễn dịch của tế bào, cũng như cải thiện cân nặng của bệnh nhân. Ngoài ra, ức chế số lượng virus và cải thiện trọng lượng cơ thể đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân được điều trị khử electron.